Theo Trưởng ban Pháp chế một ngân hàng thương mại cổ phần,mặc dù Nghị định 163/2006/NĐ-Chính phủ (29/12/2006) về giao dịch bảo đảm và Nghịđịnh số 11/2012/NĐ-Chính phủ (22/2/2012) về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định163, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩavụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữangân hàng và người vay, nhưng thực tế không diễn ra như trong luật đã quy định.
Ngân hàng ngán ngẩm chây ỳ
“Luật quy định là thế nhưng để bán được tài sản bảo đảm, thu hồi nợ vớinhững khách hàng chây ỳ thì khó như bắc thang lên trời!”, bà nói.
Thực tế xử lý tài sản bảo đảm ở các ngân hàng hiện nay cho thấy, có hai dạngthường gặp, đó là: tài sản bảo đảm là động sản và tài sản bảo đảm là bất động sản.
Với tài sản bảo đảm là động sản mà không phải đăng ký quyền sở hữu (máy móc,dây chuyền sản xuất…) thì theo hai nghị định trên, chỉ cần căn cứ vàonhững thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà ngân hàng và người vay đã ký kết,ngân hàng được phép bán qua đấu giá, thu hồi vốn; nếu còn thừa tiền thì chuyểnthẳng vào tài khoản cho khách hàng là xong.
Nhưng, với tài sản bảo đảm là bất động sản (đất, tài sản trên đất…) thì docác tài sản này đòi hỏi phải đăng ký quyền sở hữu và liên quan đến phạm vi điềuchỉnh nhiều bộ luật khác. Giả định, khách hàng không chịu ký vào hợp đồng chuyểnnhượng nhà đất cho ngân hàng thì không bao giờ ngân hàng bán được để thu hồi nợ.
Ngân hàng có thể mang ra tòa nhưng khác với tòa hình sự, hầu hết tội danh đềuđược quy định khung hình phạt rất rõ trong luật nên dù chưa xử, ở một chừng mựcnào đó, vẫn có thể hình dung được bản án ở mức nào. Nhưng với tòa dân sự thìkhông như vậy, có khi một vụ việc nhưng phán quyết ở hai tòa rất khác nhau, thậmchí đối lập.
Theo bà trưởng ban pháp chế nói trên, bên cạnh nhiều vụ tòa cứ theo luật là xửthắng cho ngân hàng nhưng không phải tất cả đều được như vậy. Trong nhiều trườnghợp, để thu được nợ, ngân hàng phải… quan hệ tốt với tòa, kể cả khi ngân hàngcó đủ chứng cứ hợp pháp! “Tốt” ở đây được hiểu là ngoài sự “thân mật”, còn phảitrang bị kiến thức cho tòa để tòa hiểu nội tình, bởi lĩnh vực ngân hàng rấtchuyên sâu mà không phải thẩm phán nào cũng am hiểu.
Có được bản án có lợi đã khó nhưng để cơ quan thi hành án làm “ngay và luôn”cho mình là cả vấn đề lớn, bởi cơ quan này cũng rất… bận!
Theo ông Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, từ1/10/2011 đến 31/3/2012, các cơ quan thi hành án đã thi hành xong 148.389 trêntổng số 274.231 việc có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 54,11%, thấp hơn 3,94% sovới cùng kỳ năm 2011.
Vì thế, ngân hàng cũng phải “sát cánh” với cơ quan này thì mới mong thu được nợdo quyền năng của cơ quan thi hành án có quyền bán đấu giá bất động sản của connợ để thu nợ cho ngân hàng, bất chấp con nợ có ký giấy chuyển nhượng quyền sở hữuhay không.
“Giá mà con nợ luôn có ý thức trả nợ và ý thức cùng với ngân hàng xử lý hậu quảkhi mất khả năng trả nợ thì sẽ không có chuyện chây ỳ như thế”, bà trưởng banpháp chế nói trên nói.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân!
Trên thực tế, việc xử lý tài sản bảo đảm ở các ngân hàng khó khăn không chỉ doý thức chây ỳ của con nợ mà còn ở cả lỗi từ ngân hàng mà cụ thể là sự tuân thủcác quy trình tín dụng (5 bước) cũng như quy định về giao dịch bảo đảm của luậtpháp chưa đúng và đủ mà vụ việc lừa đảo liên quan đến ngân hàng NVB và phòngcông chứng Việt Tín là một ví dụ.
Cụ thể, chỉ trong vòng một tháng, ngân hàng NVB đã ký 5 khế ước vay đối với mộtphụ nữ (chưa từng quan hệ tín dụng với ngân hàng) với tổng giá trị gần 5 tỷ đồng,tài sản đảm bảo là các sổ đỏ mang tên phụ nữ này. Sau khi người này bỏ trốn, ngânhàng mới nhờ cơ quan công an can thiệp. Trong quá trình xác minh, cơ quan côngan phát hiện người phụ nữ trên đã cho các hộ dân vay một số tiền rất nhỏ so vớigiá trị ngôi nhà, sau đó, lừa các hộ dân làm giấy chuyển nhượng giấy chứng nhậnquyền sử dụng nhà đất cho mình để mang thế chấp vay ngân hàng gần 5 tỷ đồng rồibỏ trốn.
Tuy nhiên, khi người viết làm việc với lãnh đạo chi nhánh ngân hàng này và yêucầu xem hồ sơ thẩm định tài sản thế chấp thì ngân hàng chỉ trưng ra hợp đồngvay vốn của người được cho là lừa đảo và vài tấm ảnh chụp sơ sài mảnh đất ngổnngang gạch vữa. Trong bức ảnh này không có ảnh chủ nhà (được cho là bị hại),cũng không có ảnh người đứng tên hợp đồng vay vốn.
Tham gia bảo vệ quyền lợi cho các bị hại ở vụ kiện này, luật sư Trịnh Cẩm Bình(Đoàn Luật sư Hà Nội) nói: “Ngân hàng này còn lâu mới đòi được số nợ này vì vụán liên quan đến hình sự đã được cơ quan công an khởi tố nên phải chờ phán quyếtcủa tòa hình sự”. Trong khi đó, đối tượng lừa đảo đã bỏ trốn hiện đang truy nãgần hai năm qua nhưng vẫn “bóng chim tăm cá”.
Luật sư Bình cũng nêu một trường hợp khác là tài sản bảo đảm là lô hàng nhưngkhi ngân hàng xuống phát mại thì toàn bộ số hàng đã không còn trong kho.
Ở một ví dụ khác, người viết từng “mục sở thị” tài sản bảo đảm để vay vốncủa một doanh nghiệp thủy sản với một ngân hàng chỉ là những chiếc bàn làm việccó “tuổi thọ” không dưới 5 năm. Đến khi ngân hàng này bị sáp nhập, những cán bộcủa ngân hàng sáp nhập đã rất bất bình vì không hiểu tại sao bàn làm việc lạicó thể là tài sản bảo đảm!
Bởi vậy, theo bà, không ít hồ sơ kiện tụng liên quan đến tranh chấp dân sự giữakhách hàng vay vốn và ngân hàng, đã cho thấy, ngân hàng chưa hoàn toàn làm đúngquy trình nội bộ và quy định luật pháp” và đó cũng là một nguyên nhân làm choquá trình xử lý tài sản bảo đảm trở nên chậm trễ. KTVN